TẠI SAO CHỦ NỢ KHÔNG CÓ BẢO ĐẢM, CHỦ NỢ CÓ BẢO ĐẢM 1 PHẦN CÓ QUYỀN NỘP ĐƠN YÊU CẦU MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN, CÒN CHỦ NỢ CÓ BẢO ĐẢM THÌ KHÔNG?

Ngày đăng: 17/04/2024

Tại khoản 1 Điều 5 Luật Phá sản năm 2014 quy định: Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 3 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Ngoài ra, căn cứ vào quy định khoản 4, khoản 5, khoản 6 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 quy định:

Một là, chủ nợ không có bảo đảm là: cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.

Hai là, chủ nợ có bảo đảm là: cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.

Ba là, chủ nợ có bảo đảm một phần là: cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó.”

Như vậy, theo quy định của Luật Phá sản, chỉ có chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Quy định này tạo điều kiện cho các chủ nợ không có sự bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có cơ hội lựa chọn một thủ tục thích hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Còn chủ nợ có bảo đảm đã được ưu tiên thanh toán khoản nợ của mình bằng chính tài sản mà đã cấm cố, thế chấp… trước đó của doanh nghiệp, hợp tác xã nên việc quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là không cần thiết.

Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng quy định này là không hợp lý. Bởi thủ tục phá sản là một thủ tục đặc biệt, là một phương thức đòi nợ đặc biệt, và các chủ nợ đòi nợ trong thủ tục này phải được thanh toán theo trật tự pháp luật. Việc không cho chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đã làm mất đi quyền lựa chọn phương thức đòi nợ hữu hiệu của chủ nợ có bảo đảm. Việc cho phép các chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản sẽ góp phần phát hiện sớm tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp, hợp tác xã, nhờ đó phần nào có thể hạn chế thiệt hại của chủ thể khác nếu có rủi ro xảy ra.

  • Lưu ý áp dụng quy định chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trên thực tế.

Quy định chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là một quy định mới được bổ sung trong Luật Phá sản năm 2014. Quy định này có một số điểm mới so với quy định của Luật Phá sản năm 1994, cụ thể:

  • Quy định mở rộng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho chủ nợ có bảo đảm một phần, thay vì chỉ giới hạn ở chủ nợ không có bảo đảm như trước đây.
  • Việc mở rộng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho chủ nợ có bảo đảm một phần là phù hợp với thực tế, bởi hiện nay có nhiều trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nhưng tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán hết nợ cho chủ nợ có bảo đảm. Trong trường hợp này, việc cho phép chủ nợ có bảo đảm một phần nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản sẽ giúp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ này.
  • Khi áp dụng quy định này trên thực tế, cần quan tâm một số vấn đề sau:

Thứ nhất, về điều kiện nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Phá sản năm 2014, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần chỉ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Do đó, khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ nợ có bảo đảm một phần cần lưu ý thời hạn nộp đơn là 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không tiến hành thanh toán.

Thứ hai, về việc phân chia tài sản trong quá trình phá sản

Theo quy định tại khoản 1 Điều 101 Luật Phá sản năm 2014, việc phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã trong quá trình phá sản được thực hiện theo thứ tự ưu tiên sau:

  • Chi phí phá sản;
  • Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết;
  • Khoản tiền gửi; khoản tiền tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trả cho người gửi tiền tại tổ chức tín dụng phá sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
  • Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ.

Như vậy, trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, chủ nợ có bảo đảm một phần sẽ được thanh toán khoản nợ của mình theo thứ tự ưu tiên, sau khi đã thanh toán các khoản nợ có thứ tự ưu tiên cao hơn.

Thứ ba, về việc giải quyết tranh chấp.

Trong trường hợp có tranh chấp giữa chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm về việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án sẽ giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Tóm lại, quy định chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là một quy định tiến bộ, phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, khi áp dụng quy định này trên thực tế, cần lưu ý một số vấn đề nêu trên để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ.

 

#phasan #quanlytaisan #thanhlytaisan #taisan #congtyphasan #congtyhoancau #quantaivien #doanhnghiep #luatsu #luatsutuvan #tuvanluat #luatphasan #luatsutuvanmienphi #tuvan

Đóng